Nhằm giúp cho các doanh nghiệp ghi chép kế toán và lập báo cáo tài chính theo các chuẩn mực kế toán và chế độ kế toán, giúp các kiểm toán viên đưa ra ý kiến về sự phù hợp của báo cáo tài chính đồng thời giúp người sử dụng các báo cáo tài chính hiểu và đánh giá thông tin tài chính, Luật kế toán đã ban hành hệ thống các nguyên tắc kế toán cơ bản.

Các nguyên tắc kế toán cơ bản trong luật kế toán

Các nguyên tắc kế toán thực chất là những quy ước, chỉ dẫn, hướng dẫn xuyên suốt trong quá trình thực hiện các công việc kế toán được nhiều người công nhận ở một thời điểm. Như vậy cần lưu ý rằng các nguyên tắc kế toán không phải là bất biến mà ngược lại nó có thể thay đổi hoàn thiện hơn khi môi trường thay đổi, đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế.

Theo hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam- chuẩn mực số 01: chuẩn mực chung (Ban hành và công bố theo Quyết định số 165/2002/QĐ-BTC ngày 31 tháng 12 năm 2002 của Bộ trưởng Bộ Tài chính), có quy định về 7 nguyên tắc kế toán cơ bản:

  • Nguyên tắc cơ sở dồn tích (Accruals basis).
  • Nguyên tắc hoạt động liên tục (Going concern)
  • Nguyên tắc giá gốc (Historical cost)
  • Nguyên tắc phù hợp (Matching concept).
  • Nguyên tắc nhất quán (Consistency
  • Nguyên tắc thận trọng (Frudence concept)
  • Nguyên tắc trọng yếu (Materiality concept).
  1. Cơ sở dồn tích
  • Nội dung chuẩn mực: “Mọi nghiệp vụ kinh tế, tài chính của doanh nghiệp liên quan đến tài sản, nợ phải trả, nguồn vốn chủ sở hữu, doanh thu, chi phí phải được ghi sổ kế toán vào thời điểm phát sinh, không căn cứ vào thời điểm thực tế thu hoặc thực tế chi tiền hoặc tương đương tiền. Báo cáo tài chính lập trên cơ sở dồn tích phản ảnh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và tương lai.”
  • Nguyên tắc này có nghĩa là mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh của DN phải được ghi chép vào sổ kế toán tại ngày thực hiện giao dịch mà không căn cứ vào thời điểm thực tế thu/ chi tiền.

Ví dụ: DN bán hàng cho khách hàng với tổng giá thanh toán là 200.000.000 đồng, khách hàng thanh toán bằng tiền gửi ngân hàng 100.000.000 đồng, còn lại nợ. Theo nguyên tắc cơ sở dồn tích thì doanh thu ghi nhân ngay tại thời điểm phát sinh khi khách hàng chấp nhận thanh toán mua hàng , giá trị phản ánh trên tài khoản doanh thu là 200.000.000 đồng, TGNH (đã thu) là 100.000.000 đồng và Phải thu khách hàng ( KH còn nợ) là 100.000.000 đồng.

  • Tính ưu việt của nguyên tắc này thể hiện qua ví dụ trên, nó giúp kế toán ghi nhận và phản ánh tài sản thuộc sở hữu của DN nhưng thời điểm hiện tại không nằm ở DN ( các khoản phải thu, nợ phải trả…).
  • Báo cáo tài chính lập trên cơ sở dồn tích phản ảnh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và tương lai”. Việc ghi nhận doanh thu và chi phí có ảnh hưởng quyết định đến báo cáo lợi nhuận của Doanh nghiệp trong một kỳ, cơ sở kế toán dồn tích được xem là một nguyên tắc chính yếu đối với việc xác định lợi nhuận của doanh nghiệp. Lợi nhuận theo cơ sở dồn tích là phần chênh lệch giữa doanh thu và chi phí; từ đó, BCTC nói chung và BCKQKD nói riêng được lập trên cơ sở dồn tích phản ánh đầy đủ (hay tuân thủ yêu cầu trung thực) các giao dịch kinh tế trong kỳ và từ đó cho phép tình trạng tài sản, nguồn vốn của DN được phản ánh một cách đầy đủ, hợp lý.
  1. Hoạt động liên tục
  • Nội dung chuẩn mực: “Báo cáo tài chính phải được lập trên cơ sở giả định là doanh nghiệp đang hoạt động liên tục và sẽ tiếp tục hoạt động kinh doanh bình thường trong tương lai gần, nghĩa là doanh nghiệp không có ý định cũng như không buộc phải ngừng hoạt động hoặc phải thu hẹp đáng kể quy mô hoạt động của mình. Trường hợp thực tế khác với giả định hoạt động liên tục thì báo cáo tài chính phải lập trên một cơ sở khác và phải giải thích cơ sở đã sử dụng để lập báo cáo tài chính”.
  • Đặc điểm giả thiết DN hoạt động liên tục liên quan tới việc phản ánh tài sản, doanh thu, chi phí của DN theo giá gốc không phản ánh theo gía thị trường. Mặc dù giá trị thị trường của các TS mà DN mua về có thể thay đổi theo thời gian. Giả thiết này được đặt ra với lập luận doanh nghiệp hoạt động liên tục nên tài sản được sử dụng cho hoạt động sản xuất kinh doanh và không được bán nên giá thị trường của tài sản là không phù hợp và không cần thiết để phản ánh. Nếu phản ánh tài sản theo giá thực tế, báo cáo tài chính của đơn vị chỉ phản ánh được tình hình tài chính của doanh nghiệp ở thời điểm hiện tại mà thôi. Nguyên tắc này còn làm cơ sở cho các phương pháp tính hao mòn để phân chia giá trị tài sản cố định vào các chi phí hoạt động của doanh nghiệp theo thời gian hoạt động của nó. Trường hợp, khi doanh nghiệp chuẩn bị bán, sát nhập, giải thể…thì nguyên tắc hoạt động liên tục sẽ không được vận dụng vào việc lập báo cáo tài chính. Ở đây, các tài sản của doanh nghiệp sẽ phản ánh theo giá thị trường.

Ví dụ: Khi nhập một máy X trị giá 110 triệu đồng, trong đó thuế GTGT là 10%. Chi phí lắp đặt chạy thử là 2 triệu đồng. Máy X được xác định hoạt động trong 5 năm.

  • Trường hợp DN hoạt động bình thường theo nguyên tắc hoạt động liên tuc, báo cáo tài chính ghi nhận TS theo giá gốc.
  • Nguyên giá máy X: 100 + 2 =102 triệu đồng.
  • Trường hợp sau 2 năm sử dụng thì DN X có nguy cơ phá sản. Khi đó, BCTC ghi giá của máy X:
  • Nguyên giá máy X: (100/5) *3 +2 = 62 triệu đồng.
  1. Giá gốc:
  • Tài sản phải được ghi nhận theo giá gốc. Giá gốc của tài sản được tính theo số tiền hoặc khoản tương đương tiền đã trả, phải trả hoặc tính theo giá trị hợp lý của tài sản đó vào thời điểm tài sản được ghi nhận. Giá gốc của tài sản không được thay đổi trừ khi có quy định khác trong chuẩn mực kế toán cụ thể.”
  • Theo nguyên tắc này, tài sản nói chung đặc biệt là TSCĐ được ghi nhập theo giá gốc mua ban đầu chứ không phải giá thị trường, tính tại thời điểm mua và cộng các chi phí liên quan để đưa chúng vào trạng thái sẵn sàng sử dụng, hay còn gọi là nguyên giá.

Ví dụ: Nhập 1 máy MX trị giá 55 triệu động đã có thuế GTGT 10%, chi phí vận chuyển 5,5 triệu đồng, chi phí lắp đặt chạy thử 2,2 triệu đồng ( chi phí đã có thuế VAT 10%).

  • Giá trị của máy MX sẽ được hạch toán vào sổ kế toán theo giá gốc.
  • Nguyên giá: 55/1,1 + 5,5/1,1 +2,2/1,1 = 57 triệu đồng.
  1. Phù hợp
  • Việc ghi nhận doanh thu và chi phí phải phù hợp với nhau. Khi ghi nhận một khoản doanh thu thì phải ghi nhận một khoản chi phí tương ứng có liên quan đến việc tạo ra doanh thu đó. Chi phí tương ứng với doanh thu gồm chi phí của kỳ tạo ra doanh thu và chi phí của các kỳ trước hoặc chi phí phải trả nhưng liên quan đến doanh thu của kỳ đó”.
  • Vì cơ sở của nguyên tắc dựa vào kỳ kế toán nên hạch toán chi phí phải căn cứ vào thời gian đem lại lợi ích cho doanh nghiệp. Điều này là hết sức cần thiết cho các doanh nghiệp vì có liên quan trực tiếp đến lợi ích của họ.
  • Việc xác định các khoản chi phí hợp lý trong kỳ tương ứng với phần doanh thu sẽ giúp doanh nghiệp tính toán chính xác thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN), làm căn cứ để tính thuế TNDN phải nộp cho nhà nước.

Ví dụ: Khi DN mua công cụ dụng cụ sử dụng trong vòng 6 tháng, DN không thể phản ánh toàn bộ chi phí của 6 tháng trên 1 tháng phát sinh mà phải thông qua TK :Chi phí trả trước ngăn hạn, và thực hiện phân bổ chi phí đó trong vòng 6 tháng kể từ tháng phát sinh đưa công cụ dụng cụ vào sử dụng.

  1. Nhất quán.
  • Các chính sách và phương pháp kế toán doanh nghiệp đã chọn phải được áp dụng thống nhất ít nhất trong một kỳ kế toán năm. Trường hợp có thay đổi chính sách và phương pháp kế toán đã chọn thì phải giải trình lý do và ảnh hưởng của sự thay đổi đó trong phần thuyết minh báo cáo tài chính”.
  • Nguyên tắc nhất quán giúp đảm bảo thông tin trình bày trên BCTC của các kỳ liên tiếp nhau đáp ứng được yêu cầu có thể so sánh được và mang tính ổn định.

Ví dụ: DN lựa chọn phương pháp tính giá xuất kho hàng hóa theo phương pháp nhập trước xuất trước thì phương pháp này phải được áp dụng trong suất kỳ kế toán.

Trường hợp kỳ tới, DN phải thay đổi phương pháp  tính giá xuất kho theo phương pháp bình quân cả kỳ dự trữ thì phải nêu rõ trong phần thuyết minh báo cáo TC.

  1. Thận trọng:
  • Thận trọng là việc xem xét, cân nhắc, phán đoán cần thiết để lập các ước tính kế toán trong các điều kiện không chắc chắn. Nguyên tắc thận trọng đòi hỏi:
  • Phải lập các khoản dự phòng nhưng không lập quá lớn;
  • Không đánh giá cao hơn giá trị của các tài sản và các khoản thu nhập;
  • Không đánh giá thấp hơn giá trị của các khoản nợ phải trả và chi phí;
  • Doanh thu và thu nhập chỉ được ghi nhận khi có bằng chứng chắc chắn về khả năng thu được lợi ích kinh tế, còn chi phí phải được ghi nhận khi có bằng chứng về khả năng phát sinh chi phí.

Ví dụ: DN A có chính sách bảo hành cho sản phẩm bán ra. Công ty phải lập một khoản dự phòng 5% trên doanh thi để phòng trường hợp khách hành có bảo hành sản phẩm.

 

  1. Trọng yếu
  • Thông tin được coi là trọng yếu trong trường hợp nếu thiếu thông tin hoặc thiếu chính xác của thông tin đó có thể làm sai lệch đáng kể báo cáo tài chính, làm ảnh hưởng đến quyết định kinh tế của người sử dụng báo cáo tài chính. Tính trọng yếu phụ thuộc vào độ lớn và tính chất của thông tin hoặc các sai sót được đánh giá trong hoàn cảnh cụ thể. Tính trọng yếu của thông tin phải được xem xét trên cả phương diện định lượng và định tính.
  • Vận dụng nguyên tắc này, các khoản mục có cùng nội dung, bản chất kinh tế, không phụ thuộc vào quy mô có thể gộp lại thành một khoản mục trình bày trên BCTC. Tuy nhiên vẫn có những khoản mục có quy mô rất nhỏ nhưng lại có nội dung bản chất kinh tế riêng biệt mang tính trọng yếu thì phải trình bày tách riêng trên BCTC.

Ví dụ: Lợi nhuận sau thuế của công ty A là 5 tỷ đồng, nhưng thông tính trên BCTC lại trình bày:

  • TH 1: 4900 triệu đồng, sai lệch ít, không ảnh hưởng đến quyết định của người sử dụng BCTC, không mang tính trọng yếu.
  • TH 2: 3500 triệu đồng, mang tính trọng yếu, nó ảnh hưởng tới quyết định của người sử dụng BCTC.

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây